QUỲNH LƯU TỪ THỜI NGUYÊN THUỶ ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX

1) Những dấu tích của thời nguyên thuỷ trên đất Quỳnh lưu

Quỳnh lưu là một vùng đất cổ có cư dân sinh sống từ lâu đời. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích của người nguyên thuỷ tại di chỉ cồn sò điệp Xã Quỳnh Văn. Ngoài ra còn tìm thấy một số di chỉ khác thuộc văn hoá Quỳnh Văn ở các xã: Quỳnh Hoa, Quỳnh Hậu, Quỳnh Hồng, Quỳnh Xuân, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương. Niên đại của văn hoá Quỳnh Văn được xác định là ở vào thời kỳ đồ đá cách ngày nay 6000 năm. Trong di chỉ Quỳnh Văn các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các công cụ dá ghè đẽo thô sơ, chủ yếu là các rìu đá hình mai rùa. Bên cạnh công cụ đá còn có các công cụ bằng xương như mũi dùi, đục được mài sắc và đẹp. Ngoài di chỉ Quỳnh Văn còn tìm thấy các công cụ bằng gốm mặc dù còn thô sơ, kỷ thuật nặn bằng tay nhưng đã có trang trí hoa văn ở cả 2 mặt.

Người nguyên thuỷ trên đất Quỳnh Lưu tiến thêm một bước quan trong sang hậu kỳ đá mới là di chỉ Trại Ổi (Quỳnh Hồng). Cư dân Trại Ổi đã biết mài nhẵn công cụ đá, kỷ thuật làm gốm bằng bàn xoay xuất hiện với hoa văn phong phú hơn.

Đến thời đại đồ đồng ở Quỳnh Lưu có di chỉ văn hoá Đền Đồi (Đồi Thần, Quỳnh Hậu), rú Vin (Quỳnh Giang) có niên đại cách ngày nay khoảng 3500 năm tương ứng với văn hoá Phùng Nguyên ở Vĩnh Phú.
Cư dân nguyên thuỷ ở Quỳnh Lưu sinh sống thành từng bộ lạc ở những vùng lõm, đồng lầy dọc bờ biển. Đời sống kinh tế chủ yếu là hái lượm, săn bắt các loài nhuyễn thể như : Sò, Điệp, Ốc, Ngao, Hàu và đánh cá. Đến hậu kỳ đá mới họ còn biết trồng trọt và dệt vải, biết nấu chín thức ăn bằng lửa. Cho đến thời đại đồ đồng cách ngày nay 3500 năm vẫn đang ở trong chế độ thị tộc mẫu hệ, bước đầu đã có sự liên hệ với cư dân sông Hồng, sông Lam

2) Quá trình hình thành và phát triễn của Huyện Quỳnh Lưu ( Từ đầu công nguyên cho đến giữa thế kỷ XIX)

Trong thời Bắc thuộc từ thế kỷ I đến thế kỷ III Quỳnh Lưu thuộc đất Hàm Hoan (Tên gọi vùng đât thuộc Nghệ -Tĩnh), từ cuối thế kỷ III đầu thế kỷ IV Hàm Hoan đổi tên thành Đức Châu, đến giữu thế kỷ VII được gọi là Hoan Châu, rồi đến nữa cuối thế kỷ VIII Hoan Châu được tách ra thành Hoan Châu và Diễn Châu. Diễn Châu thời kỳ này bao gồm các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong của Nghệ An ngày nay.
Sau khi giành độc lập , thoát khỏi ách thống trị phương Bắc, các triều đại phong kiến nước ta Ngô, Đinh, Tiền Lê có thay đổi lại tên gọi và địa giới hành chính các vùng trong nước. đến thời Lý Quỳnh lưu thuộc đất Diễn Châu trực thuộc chính quyền trung ương. Đến thời Trần Quỳnh Lưu thuộc trấn Vọng Giang, sang thời Hồ Quỳnh Lưu thuộc phủ Linh Nguyên (vùng đất linh thiêng). Đến thời Lê Quỳnh Lưu là một huyện của phủ Diễn Châu thuộc Nghệ An thừa tuyên. Tên Quỳnh Lưu chính thức xuất hiện vào năm 1430 dưới thời Lê Thái Tổ, bao gồm 7 tổng phía trên và 4 tổng phía dưới là Quỳnh Lâm, Phú Hậu Thanh Viên và Hoàng Mai. Đến thời Nguyễn , năm Minh Mênh 21 (1840) 7 tổng phía trên tách ra thành huyện Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu còn lại 4 tổng là Quỳnh Lâm, Hoàn Hậu, Thanh Viên và Hoàng Mai như ngày nay thuộc phủ Diễn Châu. Trong thời kỳ Pháp thuộc năm 1919 chính quyền thực dân phong kiến bỏ cấp phủ, Quỳnh Lưu là một huyện trực thuộc Tĩnh. Từ sau cách mạng tháng Tám đến nay về mặt địa giới hành chính cơ bản không có gì thay đổi. Hiện nay Quỳnh Lưu có 42 xã và 1 thị trấn, dân số khoảng 37 vạn người, diện tích là 584.6 km2. Cư dân Quỳnh Lưu chủ yều là người Kinh và có khoảng 1600 đồng bào thiểu số dân tộc Thái sống ở xã Tân Thắng phía tây của Huyện.

3) Kinh tế-xã hội và truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm

Quỳnh Lưu có địa hình tương đối đa dạng bao gồm vùng rừng núi, trung du bán sơn địa phía tây, vùng đồng bằng trung tâm và vùng Biển, ven biển. Sự đa dạng về địa hình đã tạo cho Quỳnh Lưu sự đa dạng về kinh tế. Nông nghiệp lúa nước là ngành chủ dạo , Quỳnh Lưu còn có thế mạnh trong kinh tế vườn , rừng, kinh tế biễn. Quỳnh Lưu củng là nơi sản sinh và lưu truyền nhiều nghành nghề truyền thống như Mộc, chế biến nông sản, chế biến thuỷ hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng. Đã tạo ra những sản phẩm nổi tiếng như nước măm Quỳnh Phương, sản phẩm mộc Quỳnh Hưng. v v..
Quỳnh Lưu nổi tiếng là đất học với những kỳ danh khoa bảng, với những “Ông đồ xứ Nghệ” lừng danh cả trong nam ngoài bắc. Trong thời kỳ phong kiến tính đến kỳ thi cuối cùng của nhà Nguyễn năm 1919 Quỳnh Lưu có hàng ngàn người đỗ từ tú tài đến đại khoa ( 19 đại khoa). Đất học nổi tiếng nhất và nhiều người đỗ đạt nhất qua các thời kỳ là Quỳnh Đôi ( từ năm 1442 đời Lê Nhân Tông đến kỳ thi cuối cùng năm 1919 có hơn 1000 người đỗ từ tú tài đến tiến sỹ) Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo đã được giữ dìn và phát huy qua các thời kỳ tạo nên nét đẹp trong truyền thống văn hoá , con người Quỳnh Lưu
Trai thì quyết chí khoa trường
Đèn xanh một ngọn, quyễn vàng năm canh

Sáng khoai, chiều khoai, khoai ba bữa
Cha đậu , con đậu, đậu cả nhà

Làng Quỳnh lắm kẻ đang khoa
Ông nghè, ông cử, như hoa vườn quỳnh
Trong tiến trình phát triễn của lịch sử dân tộc, nhân dân Quỳnh Lưu đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ đất nước. Thời Bắc thuộc, cùng với nhân dân cả nước Quỳnh Lưu hiên ngang bất khuất đứng lên chống lại ách thống trị của phong kiến phương bắc. Đến thời độc lập (Ngô-Đinh-Tiền Lê- Lý ) Quỳnh Lưu trở thành địa bàn phòng thủ quan trọng, đồng thời là nơi cung cấp quân lương cho các cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược. Đây củng là nơi xuất phát cho các cuộc đấu tranh chống xâm lấn đất đai của các thế lực phong kiến phương Nam. Thời Trần thế kỷ XIII Quỳnh Lưu là nơi tích trử lương thực và là nơi luyện quân cho các cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên . Năm 1285 trong cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần thứ 2, quân dân Quỳnh Lưu đã lập chiến công xuất sác trong việc chặn cánh quân của Toa Đô kéo quân từ phía nam ra tại cảng Xước (Quỳnh Lập). Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh thế kỷ XV , Quỳnh Lưu trở thành nơi tích trữ lương thực và luyện quân của nghĩa quân Lam Sơn. Nhiều tuấn kiệt của Quỳnh Lưu đã trở thành những tướng lĩnh tài ba của nghĩa quân Lam Sơn như Nguyễn Bá Lai ( Quỳnh Giang), Nguyễn Tu, Hoàng Lữ (Quỳnh Đôi), Đậu nhân Lý, Đậu Nhân Nghĩa (Quỳnh Thiện), Lê Khắc Nhân (Quỳnh Bảng). Trong phong trào Tây Sơn Quỳnh Lưu nói riêng và Nghệ An nói chung, là nơi đứng chân quan trọng của Nguyễn Huệ khi đưa quân ra bắc đánh tan 29 vạn quân Thanh .

(Nguyễn Ngọc Quỳnh : Sưu tầm)

 

Tham gia hội những người Quỳnh đôi, Quỳnh lưu, Nghệ an

https://www.facebook.com/pages/H%E1%BB%99i-nh%E1%BB%AFng-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-Qu%E1%BB%B3nh-%C4%90%C3%B4i-xa-x%E1%BB%A9/401522203222715?fref=ts